Nghiên cứu – Doanhnhanvn.com https://doanhnhanvn.com Nơi chia sẻ thông tin, kiến thức và kinh nghiệm về kinh doanh, khởi nghiệp và quản lý doanh nghiệp. Cập nhật tin tức kinh tế, tài chính và phong cách sống doanh nhân. Sat, 30 Aug 2025 23:07:28 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/doanhnhanvn.svg Nghiên cứu – Doanhnhanvn.com https://doanhnhanvn.com 32 32 Đại học Quốc gia Hà Nội hướng tới trở thành đại học nghiên cứu hàng đầu thế giới https://doanhnhanvn.com/dai-hoc-quoc-gia-ha-noi-huong-toi-tro-thanh-dai-hoc-nghien-cuu-hang-dau-the-gioi/ Sat, 30 Aug 2025 23:07:25 +0000 https://doanhnhanvn.com/dai-hoc-quoc-gia-ha-noi-huong-toi-tro-thanh-dai-hoc-nghien-cuu-hang-dau-the-gioi/

Trong nhiệm kỳ vừa qua, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy và sự điều hành quyết liệt của Ban Giám đốc. Cơ sở đào tạo này đã thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng, tạo tiền đề thúc đẩy phát triển và tạo lập vị thế mới của cơ sở đào tạo, nghiên cứu hàng đầu cả nước, vươn tầm quốc tế.

Một trong những thành quả đáng ghi nhận là sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ ĐHQGHN, xây dựng môi trường làm việc dân chủ, hợp tác, kiến tạo nền tảng để phát triển bền vững. Công tác xây dựng, kiện toàn, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được chú trọng, với tỷ lệ chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ trung bình hằng năm đạt hơn 97%; đảng viên đạt hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt 98%/năm. Toàn Đảng bộ ĐHQGHN đã kết nạp 961 đảng viên, trong đó có 558 đảng viên là sinh viên và 14 đảng viên là học sinh.

ĐHQGHN cũng đã triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW, sắp xếp tổ chức theo hướng tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, giảm từ 36 xuống 25 đầu mối. Cơ chế tự chủ và tái cấu trúc bộ máy theo hướng tinh gọn gắn với nâng cấp, phát triển một số đơn vị đã được đẩy mạnh. ĐHQGHN đã trao quyền tự chủ cao, gắn với trách nhiệm giải trình cho các đơn vị, tập trung quản trị chiến lược và chất lượng.

Chuyển đổi số và đổi mới quản trị tại ĐHQGHN có bước tiến rõ nét, với hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu, phần mềm quản lý được hiện đại hóa. Đến cuối năm 2024, 95% học liệu được số hóa; dữ liệu cán bộ, sinh viên số hóa đạt 100%; 20% môn học mỗi chương trình áp dụng giảng dạy trực tuyến.

Về đào tạo, ĐHQGHN đã điều chỉnh quy mô đào tạo đại học lên hơn 60.000 người học, vượt 26,5% so với chỉ tiêu đề ra. Các chương trình đào tạo được điều chỉnh linh hoạt nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao. Quốc tế hóa là trụ cột chiến lược trong đào tạo, ĐHQGHN đang tái cấu trúc toàn diện chương trình, phương pháp giảng dạy và mô hình tổ chức theo chuẩn quốc tế.

Hoạt động khoa học và công nghệ của ĐHQGHN đạt những thành tựu đáng ghi nhận, bước đầu áp dụng quy trình tin học hóa, xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống các phần mềm quản lý hoạt động khoa học và công nghệ. Nguồn lực tài chính đã và đang đầu tư cho nhiệm kỳ tới trong lĩnh vực khoa học công nghệ tăng đột biến, ước đạt hơn 3.520 tỷ đồng.

Mạng lưới khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của ĐHQGHN được cấu trúc lại với 15 chương trình nghiên cứu; 8 lĩnh vực công nghệ mũi nhọn ưu tiên. Công viên Công nghệ cao và Đổi mới sáng tạo gắn với phát triển các đơn vị nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao.

Nguồn lực tài chính, hạ tầng cơ sở vật chất và hạ tầng số đạt được nhiều thành tựu. Xây dựng Khu đô thị ĐHQGHN tại Hòa Lạc và đến nay hầu hết các đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc đã chính thức chuyển trụ sở làm việc tới Hòa Lạc là nhiệm vụ lớn và được xác định là khâu đột phá của Đảng bộ ĐHQGHN trong nhiệm kỳ vừa qua.

Với sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và sự hỗ trợ, kiến tạo của các bộ, ngành cùng nội lực mạnh mẽ từ đội ngũ giảng viên, nhà khoa học và sinh viên, ĐHQGHN đang trên hành trình phát triển đột phá trở thành biểu tượng của đổi mới sáng tạo, đóng góp thiết thực vào sự phát triển bền vững của đất nước.

Nhiệm kỳ 2025-2030, Đảng bộ ĐHQGHN đặt mục tiêu trở thành “Đại học nghiên cứu và đổi mới sáng tạo trong nhóm các đại học hàng đầu thế giới” vào năm 2030. Để đạt được điều này, ĐHQGHN tiếp tục đẩy mạnh phân cấp trong quản trị đại học, tài chính và cơ sở vật chất, đồng thời bảo đảm liên thông nhân lực và chia sẻ nguồn lực.

Mới đây nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định về Đại học Quốc gia, tạo ra một cơ chế mới để phát huy hết tiềm lực thực hiện các sứ mệnh mới của kỷ nguyên vươn mình.

]]>
Sinh viên Công nghệ sinh học cần chuẩn bị gì để có việc làm tốt? https://doanhnhanvn.com/sinh-vien-cong-nghe-sinh-hoc-can-chuan-bi-gi-de-co-viec-lam-tot/ Mon, 11 Aug 2025 21:04:46 +0000 https://doanhnhanvn.com/sinh-vien-cong-nghe-sinh-hoc-can-chuan-bi-gi-de-co-viec-lam-tot/

Ngành Công nghệ sinh học đang nổi lên như một lĩnh vực đầy hứa hẹn và đột phá trong thế kỷ 21, với ứng dụng rộng rãi trong các ngành như dược, nông nghiệp, và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, nhiều sinh viên và người lao động trong ngành này thường lo lắng về khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm hoặc phải làm trái ngành.

Ngành Công nghệ sinh học đòi hỏi sự tương thích giữa năng lực của người học và yêu cầu của thị trường. Ảnh minh họa: INT
Ngành Công nghệ sinh học đòi hỏi sự tương thích giữa năng lực của người học và yêu cầu của thị trường. Ảnh minh họa: INT

Ngành Công nghệ sinh học đòi hỏi người học phải có nền tảng học thuật vững chắc, tư duy khoa học sắc bén và khả năng đọc hiểu, tổng hợp và vận dụng kiến thức linh hoạt. Đặc biệt, kỹ năng thực hành trong phòng thí nghiệm, sử dụng thành thạo các thiết bị và phần mềm số, khai thác dữ liệu lớn, nắm vững tin sinh học, lập trình cơ bản và ngoại ngữ chuyên ngành là những yếu tố không thể thiếu để hội nhập tri thức toàn cầu.

Thực tế cho thấy nhiều sinh viên tốt nghiệp ngành Công nghệ sinh học còn yếu về kỹ năng thực hành, sử dụng công nghệ số và ngoại ngữ, dẫn đến khó đáp ứng ngay các yêu cầu khắt khe của doanh nghiệp hay viện nghiên cứu hiện đại.

Theo ThS Dương Nhật Linh, giảng viên Khoa Công nghệ sinh học – Trường Đại học Mở TPHCM, quan niệm về khó xin việc trong ngành Công nghệ sinh học cần được nhìn nhận lại một cách toàn diện và thấu đáo. Công nghệ sinh học là ngành đặc thù với tính liên ngành cao, yêu cầu nhân lực không chỉ am hiểu về sinh học, mà còn phải hội tụ tri thức từ nhiều lĩnh vực như công nghệ thông tin, hóa học, tự động hóa và quản lý chất lượng.

ThS Linh khuyến nghị sinh viên ngành Công nghệ sinh học cần chủ động trau dồi kiến thức chuyên sâu, ngoại ngữ, kỹ năng số và trải nghiệm liên ngành. Công nghệ sinh học đang ‘khát’ nhân lực chất lượng cao, những người linh hoạt, sáng tạo và đa năng. Chỉ cần chủ động và sẵn sàng đổi mới, sinh viên ngành Công nghệ sinh học có thể tìm được công việc phù hợp với năng lực.

Về phía doanh nghiệp, ông Đinh Xuân Tùng, Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Kỹ thuật Môi trường Gia Định, cho rằng nỗi lo thất nghiệp của sinh viên công nghệ sinh học phần lớn đến từ tư duy bị động. Ứng viên nổi bật không phải là người có điểm trung bình tích lũy cao nhất mà là người thể hiện được khả năng ứng dụng kiến thức vào thực tiễn.

Ông Tùng nhấn mạnh sự ‘kén chọn’ của doanh nghiệp nằm ở kỹ năng thực tiễn. Sinh viên cần chủ động tìm kiếm cơ hội thực tập, tham gia các dự án nghiên cứu hoặc tự thực hiện các thí nghiệm nhỏ. Việc biết vận hành một hệ thống lên men, kỹ thuật phân lập và định danh vi khuẩn, hay cách phân tích kết quả xét nghiệm có giá trị hơn rất nhiều so với một bảng điểm ‘đỏ chói’.

Theo ông Tùng, sinh viên cần thay đổi góc nhìn từ bị động sang chủ động, hoạch định kế hoạch học tập và hành động cụ thể để đáp ứng nhu cầu thực tế. Cánh cửa cơ hội của ngành Công nghệ sinh học rất rộng, nhưng không tự động mở ra cho mọi người. Nó mở ra cho những ai chủ động trang bị kiến thức nền tảng vững chắc, kỹ năng thực hành thành thạo, tư duy liên ngành, đặc biệt với công nghệ thông tin và dữ liệu, cùng khả năng ngoại ngữ và các kỹ năng mềm như giải quyết vấn đề, làm việc nhóm.

Tóm lại, ngành Công nghệ sinh học đang bước vào kỷ nguyên số với tốc độ phát triển mạnh mẽ, mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức. Sinh viên và người lao động trong ngành cần chủ động trang bị kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động.

]]>
Thuốc chống béo phì: Tác dụng giảm cân ngắn hạn, tăng cân trở lại sau khi ngừng sử dụng https://doanhnhanvn.com/thuoc-chong-beo-phi-tac-dung-giam-can-ngan-han-tang-can-tro-lai-sau-khi-ngung-su-dung/ Thu, 31 Jul 2025 11:40:36 +0000 https://doanhnhanvn.com/thuoc-chong-beo-phi-tac-dung-giam-can-ngan-han-tang-can-tro-lai-sau-khi-ngung-su-dung/

Một nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng việc sử dụng thuốc chống béo phì (AOMs) có thể dẫn đến giảm cân đáng kể trong thời gian điều trị. Tuy nhiên, tình trạng tăng cân trở lại sau khi ngừng sử dụng AOMs vẫn còn là một vấn đề được quan tâm rộng rãi. Để đánh giá tác động lâu dài của AOMs lên cân nặng và theo dõi sự thay đổi cân nặng sau khi ngừng điều trị, nghiên cứu này đã tiến hành phân tích dữ liệu từ 11 nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCTs).

Weight and BMI regain trajectory after treatment of AOM withdrawal. BMI: body mass index
Weight and BMI regain trajectory after treatment of AOM withdrawal. BMI: body mass index

Các nhà nghiên cứu đã tiến hành phân tích dữ liệu từ các nghiên cứu lâm sàng để đánh giá tác động của AOMs lên cân nặng của bệnh nhân. Quá trình phân tích bao gồm việc đánh giá sự thay đổi cân nặng trong thời gian điều trị và sau khi ngừng sử dụng AOMs. Kết quả cho thấy rằng, so với nhóm đối chứng, AOMs vẫn có tác dụng giảm cân 4 tuần sau khi ngừng điều trị. Cụ thể, phân tích cho thấy sự chênh lệch về cân nặng giữa nhóm sử dụng AOMs và nhóm đối chứng là -0,32 kg, với khoảng tin cậy 95% là từ -3,60 đến 2,97, và giá trị P là 0,85. Đồng thời, chỉ số I2 là 83%, cho thấy có sự heterogeneity giữa các nghiên cứu.

Weight change in GLP-1 related and non GLP-1 related subgroup after 12 weeks of treatment discontinuation
Weight change in GLP-1 related and non GLP-1 related subgroup after 12 weeks of treatment discontinuation

Tuy nhiên, bắt đầu từ tuần thứ 8 trở đi sau khi ngừng điều trị, tình hình thay đổi. AOMs có liên quan đến tình trạng tăng cân đáng kể so với nhóm đối chứng. Phân tích cho thấy sự chênh lệch về cân nặng giữa nhóm sử dụng AOMs và nhóm đối chứng là 1,50 kg, với khoảng tin cậy 95% là từ 1,32 đến 1,68. Điều này cho thấy rằng sau khi ngừng sử dụng AOMs, bệnh nhân có xu hướng tăng cân trở lại và thậm chí vượt quá cân nặng ban đầu ở một mức độ nhất định.

GLP-1: glucagon-like peptide 1
GLP-1: glucagon-like peptide 1

Các phát hiện này có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý và tư vấn cho bệnh nhân về việc sử dụng AOMs. Mặc dù AOMs có thể hỗ trợ giảm cân trong thời gian điều trị, nhưng việc theo dõi và quản lý cân nặng sau khi ngừng điều trị là cực kỳ quan trọng để ngăn chặn tình trạng tăng cân trở lại. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu và bác sĩ cần xem xét và đánh giá kỹ lưỡng các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi cân nặng của bệnh nhân để có thể đưa ra các giải pháp can thiệp hiệu quả.

Weight change trajectory of included studies after treatment of AOM withdrawal
Weight change trajectory of included studies after treatment of AOM withdrawal

Nhìn chung, nghiên cứu này đã cung cấp bằng chứng quan trọng về tác động lâu dài của AOMs lên cân nặng và nhấn mạnh sự cần thiết của việc quản lý cân nặng chặt chẽ sau khi ngừng điều trị. Để có thể đưa ra các kết luận chắc chắn hơn, cần có thêm nhiều nghiên cứu với mẫu nghiên cứu lớn hơn và thời gian theo dõi dài hơn.

]]>